Luis Enrique – Sự thành công của lòng kiên trì, nhiệt huyết và tinh thần quả cảm

GAME BÀI WIN79

Luis Enrique từng là một mẫu cầu thủ khác biệt tại Barcelona, anh không được đúc từ cùng một khuôn như Guardiola, Xavi hay Iniesta. Bóng đá của anh mạnh mẽ, khốc liệt, cuồng nhiệt và bào mòn hơn. Sinh ra tại Asturias chứ không phải Catalunya, Luis Enrique trưởng thành từ học viện đào tạo trẻ Mareo của Sporting Gijon, chứ không phải La Masia của Barcelona. Thậm chí, anh từng chơi bóng ở Real Madrid trước khi khoác áo đội bóng xứ Catalunya. Cuộc chuyển đổi màu áo ngoạn mục của anh như một sự báo thù với thành Madrid, và từ đó, El Clasico trở thành một dòng rất đặc biệt trong CV của Luis Enrique.

game bài IwinClub

1. Sự nghiệp qua những con số

Cá nhân
  • Cầu thủ đột phá của La Liga: 1990-91
  • Nhóm ESM của năm: 1996-97
  • FIFA 100
Real Madrid
  • Vô địch La Liga: 1995
  • Vô địch Cúp nhà vua (Copa del Rey): 1993
  • Vô địch Siêu cúp Tây Ban Nha (Supercopa de España): 1993
FC Barcelona
  • Vô địch La Liga: 1998, 1999
  • Vô địch Cúp nhà vua (Copa del Rey): 1997, 1998
  • Vô địch Siêu cúp Tây Ban Nha (Supercopa de España): 1996
  • Vô địch UEEA cup Winners’ cup (C2): 1997
  • Vô địch Siêu cúp châu âu (UEEA Super Cup): 1997
  • Bán kết Champions League: 2000,2002
ĐT Tây Ban Nha U23
  • Vô địch thế vận hội mùa hè (Summer Olympics): 1992

2. Tiểu sử

Luis Enrique, tên đầy đủ Luis Enrique Martínez García, anh sinh 8 tháng 5 năm 1970 tại Gijon, là một cầu thủ bóng đá người Tây Ban Nha. Anh nổi tiếng với sự nhanh nhẹn và có thể chơi được tất cả các vị trí trong sự nghiệp bóng đá của mình, thậm chí là cả trung vệ hay là thủ môn. Tuy nhiên anh chơi tốt hơn cả với vài trò là tiền về trung tâm, và anh đã ghi được nhiều bàn thắng trong sự nghiệp thi đấu của mình. Sau khi khởi đầu sự nghiệp của mình tại Sporting de Gijón năm 1989, anh gắn bó với cả 2 CLB lớn của Tây Ban Nha, đầu tiên là Real Madrid từ năm 1991-96 và rồi anh chuyển sang FC Barcelona theo chuyển nhượng tự do. CLB này không mấy tin tưởng vào người mới của mình tuy nhiên anh đã nhanh chóng lấy được niềm tin của họ và chẳng bao lâu sau anh trở thành đội trưởng của Barcelona. Anh thi đấu cho Barca trong 8 năm (1996-2004).

Anh chơi cho ĐTQG Tây Ban Nha ở 3 kỳ World Cup: 1994, 1998, 2002 và kỳ Euro 1996. Anh khoác ao đội tuyển những chú bò tót này 62 lần và ghi được 12 bàn thắng. Đồng thời cũng là thành viên đội tuyển Tây Ban Nha giành huy chương vàng Olympic mùa hè 1992 ở Barcelona.

game bài B52Club

3. Sự nghiệp CLB

Sinh ra ở Gijón, Asturias, anh bắt đầu sự nghiệp với Sporting de Gijón. Sau đó, anh dành phần lớn thời gian chơi bóng với hai CLB lớn nhất Tây Ban Nha: đầu tiên là Real Madrid trong 5 mùa giải. Đến năm 1996, sau khi hết hợp đồng và đáng chú ý bàn thắng trong trên sân nhà trước FC Barcelona vào tháng 1 năm 1995, anh chính thức chuyển đến những đối thủ đáng gờm ở Camp Nou theo dạng chuyển nhượng tự do. Anh ở lại CLB 8 năm, cuối cùng Enrique trở thành đội trưởng và ghi bàn nhiều nhất ở El Clásico trước đội bóng cũ của anh.

Luis Enrique đã ghi được 46 bàn thắng tại La Liga trong ba mùa giải đầu tiên của anh với Barcelona, cùng với đó là giành vị trí á quân và các giải vô địch quốc nội ở mùa bóng 1996-97. Bên cạnh đó, anh vinh dự giành danh hiệu Cầu thủ của năm. Anh cũng ghi bàn thắng mở màn tại Siêu cúp UEFA 1997 để đem về chiến thắng 3-1 trước Borussia Dortmund.

game bài RikVip

Trong những năm cuối cùng ở Barcelona, ​​Luis Enrique thường xuyên bị chấn thương và không muốn gia hạn hợp đồng. Những lo ngại về trình độ và thể lực đã khiến anh nghỉ hưu vào ngày 10 tháng 8 năm 2004 ở tuổi 34 và kết thúc sự nghiệp của mình với tổng số 400 trận đấu và 102 bàn thắng, đồng thời anh cũng là một trong top 125 cầu thủ bóng đá sống vĩ đại nhất.

game bài 789CLub

4. Sự nghiệp quốc tế

Luis Enrique chơi cho đội tuyển Tây Ban Nha trong ba kì World Cup: 1994, 1998 và 2002, cũng như Euro 1996 và ghi 12 bàn thắng sau 62 lần khoác áo. Anh cũng thành viên trong đội hình giành huy chương vàng tại Thế vận hội Mùa hè 1992 ở Barcelona và có 13 lần ra sân trong đội hình chính vào ngày 17 tháng 4 năm 1991, trong đó có 22 phút trong trận giao hữu thua 0-2 trước Romania tại Cáceres.

Tại World Cup 1994 tổ chức tại Mỹ, Luis Enrique ghi bàn thắng đầu tiên trong trận thắng 3-0 ở vòng 1/16 trước Thụy Sĩ ở Washington, D.C. Trong thất bại 1-2 ở vòng tứ kết trước Ý tại SVĐ Foxboro, cùi trỏ của Mauro Tassotti đã đập vào mặt anh làm chảy máu, hành động ấy đã khiến Luis bị mất gần một cân máu. Tuy nhiên lại không hề bị nhận hình phạt nào trong trận đấu, sau đó Tassotti đã bị cấm tám trận và không bao giờ thi đấu quốc tế nữa.

5. Lời kết

Báo chí thể thao Catalunya luôn có một sự dè dặt nhất định với Luis Enrique, họ đơn giản là không thích cách anh không thích họ. Anh ghét báo chí, ghét trả lời phỏng vấn, ghét những câu hỏi. Thực ra, từ Guardiola, đến Tito hay Tata, ai cũng ghét những hoạt động đó, nhưng ít ra, họ biết tiết chế cảm xúc để không phải tự biến mình thành kẻ thù của báo chí Tây Ban Nha. Luis Enrique thì khác, tính cách thẳng thắn, bộc trực được ông thể hiện mọi lúc. Nếu không muốn trả lời điều gì, anh sẽ nói ra trực tiếp, không vòng vo, lái sang chủ đề khác.

Chính anh đã tự giúp bản thân viết nên câu chuyện của riêng mình. Barça của Luis Enrique phản ánh chân thực và sắc nét những nét tính cách của con người anh. Không bóng bẩy, thậm chí khá dị, Luis Enrique không khiến ly rượu mừng chiến thắng của Barça trở nên thơm lừng, nhưng nó ngon theo cách chưa một Cules nào từng nếm qua. Cảm ơn anh, vì đã mang đến vinh quang của tính kiên trì và lòng quả cảm!

game bài ManClub

Bài viết cùng chuyên mục